29 tháng 1 2021

Dưới vỏ bọc của đại dịch, Trung Quốc tăng cường sự liều lĩnh ở Biển Đông

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, Toà Hoà giải Vĩnh viễn


Bắc Kinh đã gia tăng sức ép lên các nước láng giềng đang lo lắng trước tham vọng thống trị toàn Biển Đông.

Robert A Manning, Patrick M Cronnin, Foreign Policy

14/05/2020

Dịch bởi: Người Mỹ Gốc Việt

Về các tác giả: 

  • Robert A. Manning là thành viên cấp cao của Trung tâm Chiến lược và An ninh Brent Scowcroft thuộc Hội đồng Đại Tây Dương và là một cựu quan chức trong Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ dưới thời chính quyền George W. Bush. Twitter: @Rmanning4

  • Patrick M. Cronin là chủ tịch phụ trách an ninh châu Á - Thái Bình Dương tại Viện Hudson và là cựu quan chức USAID trong chính quyền George W. Bush.

Trong khi thế giới bị phân tâm bởi đại dịch coronavirus, Trung Quốc đã âm thầm thực hiện các hành động bán quân sự và chính trị-pháp lý ở Biển Đông có thể thay đổi cuộc chơi đối với khu vực này. Đặt cược rằng Hoa Kỳ đang tập trung ở những nơi khác và mệt mỏi sau nhiều năm bị Trung Quốc lấn sân, các nỗ lực của Bắc Kinh đang tiến đến một điểm gãy không thể cứu vãn. Trung Quốc nhắm đến việc ép buộc các nước láng giềng trên biển từ bỏ các yêu sách và quyền lãnh thổ của họ theo luật pháp quốc tế và thay đổi hiện trạng một cách không thể đảo ngược. Bắc Kinh tìm cách áp đặt cái gọi là đường chín đoạn của họ, một ranh giới không được công nhận mà họ đã vẽ ra trên khoảng 85% Biển Đông, gần như toàn bộ Biển Đông, và 3,4 nghìn tỷ Mỹ kim hàng hóa vận chuyển đi qua đó mỗi năm - một cách tự do, ít nhất là bây giờ.

Giống như Nga ở Crimea, Bắc Kinh đang tạo ra dữ kiện trên thực địa.

Giống như Nga ở Crimea, Bắc Kinh đang tạo ra dữ kiện trên thực địa.

Các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo và bãi đá ngầm đang tranh chấp trải ra trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa - mà nước này gọi là Tây Sa và Nam Sa - có cơ sở đáng nghi ngờ trong luật pháp quốc tế và thay vào đó nó dựa trên một loạt dấu gạch ngang hình bầu dục được vẽ trên bản đồ Biển Đông. Các đảo nhỏ này, một số trong đó do Bắc Kinh đã củng cố và xây dựng nhân tạo với các căn cứ quân sự,  trùng lặp với các yêu sách chủ quyền của Malaysia, Philippines, Việt Nam và Brunei. Đường vẽ của Trung Quốc ban đầu được vẽ bởi chính phủ tiền Cộng sản của Tưởng Giới Thạch vào năm 1947 và được sửa đổi vào năm 1952 bởi Mao Trạch Đông. Năm 2009, trong công hàm gửi Ủy ban Giới hạn Thềm lục địa, Trung Quốc đính kèm bản đồ đường đứt nét và tuyên bố rằng họ có “chủ quyền không thể chối cãi đối với các đảo ở Biển Đông và các vùng biển lân cận, và được hưởng các quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy biển." Bắc Kinh đã thúc đẩy tuyên bố đó bằng sự quyết đoán ngày càng tăng kể từ đó, đồng thời khai thác sự mơ hồ của các thuật ngữ như “liền kề” và “có liên quan”.


Các yêu sách chủ quyền tranh chấp ở Biển Đông

 Một tàu ngầm Vạn Lý Trường Thành 236 của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) Trung Quốc ở vùng biển gần Thanh Đảo, Trung Quốc, ngày 23/4/2019. (Ảnh: Mark Schiefelbein/ AFP / Getty Images)

Chưa kể là các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh về cơ bản không tương thích với luật pháp quốc tế đã được thiết lập về biên giới biển, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển mà Trung Quốc đã phê chuẩn và nước này tuyên bố tuân thủ. Cũng như các tuyên bố đã bị phán quyết là gian trá bởi một tòa án quốc tế ở The Hague. Đây là một phần trong chiến lược rộng lớn hơn của Trung Quốc nhằm tạo ra phiên bản riêng của Học thuyết Monroe, chính sách vào thế kỷ 19, theo đó Hoa Kỳ tuyên bố tất cả Bắc và Nam Mỹ là khu vực kiểm soát hợp pháp của mình và loại các cường quốc châu u ra ngoài. Bắc Kinh tìm kiếm một phạm vi ảnh hưởng quyết định với khả năng phòng thủ quân sự để tăng cái giá phải trả cho bất kỳ sự can thiệp tiềm tàng nào của Hoa Kỳ. Nói tóm lại, trong khi thế giới chống lại COVID-19, Trung Quốc đang tiến gần hơn đến việc thiết lập quyền thống trị trong khu vực.

Nói tóm lại, trong khi thế giới chống lại COVID-19, Trung Quốc đang tiến gần hơn đến việc thiết lập quyền thống trị trong khu vực.

Những hành động này cùng với phản ứng của Hoa Kỳ và các quốc gia trong khu vực sẽ quyết định liệu tương lai của khu vực sẽ là một khu vực cởi mở và thịnh vượng chung hay xung đột và tranh chấp.

Cố gắng tạo ra một chuyện đã rồi (fait accompli) là cách duy nhất để giải thích hành vi của Bắc Kinh trong những tuần gần đây. Vào ngày 18 tháng 4, Trung Quốc tuyên bố thành lập hai đặc khu hành chính mới, một đặt trụ sở chính trên Đá Chữ Thập, một đảo nhân tạo ở Trường Sa và một trên đảo Woody ở Hoàng Sa. Nó đã đặt tên cho 80 hòn đảo nhỏ và rạn san hô, không chỉ bao gồm những hòn đảo nhân tạo mà còn có 55 thực thể nằm dưới mặt nước vĩnh viễn. Những hành động này có nghĩa là để tạo các dữ liệu mới, làm chỗ dựa để tuyên bố kiểm soát 1,4 triệu dặm vuông của Biển Đông.

Để thực thi những tuyên bố này trong năm qua, Trung Quốc đã tăng cường sức ép bằng cách sử dụng ba lực lượng hải quân của họ — các đội quân PLA, Cảnh sát biển Trung Quốc và lực lượng dân quân hàng hải — ở các vùng biển ngoài khơi Indonesia, Malaysia, Việt Nam và Philippines. Việc đánh bắt trái phép của nước này đã khiến Indonesia đẩy mạnh các hành động hải quân, bao gồm đánh chìm hơn một chục tàu đánh cá của Trung Quốc xung quanh quần đảo Natuna, được quốc tế công nhận là nằm trong vùng biển của Indonesia. Thay vì lùi bước, Trung Quốc tiếp tục đánh bắt bất hợp pháp quanh quần đảo Natuna vào cuối tháng 3. Trong khi Trung Quốc không tranh chấp chủ quyền của Indonesia đối với khu vực này, Bắc Kinh đưa ra tuyên bố ngớ ngẩn rằng đây là “ngư trường truyền thống của Trung Quốc từ thời cổ đại”, như thể ngư dân Indonesia, Malaysia hoặc Việt Nam (những người mà tàu Trung Quốc quấy rối một cách có hệ thống) chưa từng tồn tại trong quá khứ.

Đáng ngại hơn, Bắc Kinh đã làm cho vấn đề nghiêm trọng hơn trong năm qua bằng cách đe dọa các dự án dầu khí lớn ngoài khơi bên trong các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Malaysia và Việt Nam được quốc tế công nhận. (Vùng đặc quyền kinh tế EEZ của một quốc gia kéo dài 200 hải lý ngoài khơi bờ biển của họ.) Vào cuối tháng 4, một tàu khảo sát của Trung Quốc do Cảnh sát biển Trung Quốc hộ tống đã quấy rối một tàu thăm dò do tập đoàn năng lượng khổng lồ Petronas của Malaysia điều hành bên trong vùng EEZ của Malaysia. Sự đe dọa của cuộc tập trận tiếp theo những bế tắc tương tự vào năm ngoái. Trước khi đến Malaysia, tàu khảo sát đã đi qua EEZ của Việt Nam gần địa điểm xảy ra sự cố trước đó. Vào năm 2019, các tàu của Trung Quốc và Việt Nam đã cố gắng ngăn chặn hoạt động thăm dò của nhau đối với 5 túi dầu nằm bên trong EEZ của Việt Nam. Điều này đã làm dấy lên lo ngại trong khu vực rằng Trung Quốc đang cố gắng gây rối và dần dần bóp nghẹt các hoạt động dầu khí của Malaysia và Việt Nam trong khu vực và xóa bỏ yêu sách lãnh thổ của họ. Cái giá phải trả của Malaysia sẽ rất lớn nếu Petronas phải rút lui các dự án quan trọng. Tương tự, Hà Nội lo ngại rằng ExxonMobil và Rosneft có thể từ bỏ các dự án ở vùng biển Việt Nam nếu hành động quấy rối của Trung Quốc tiếp tục.

Nước cờ của Trung Quốc là một phép thử hiện hữu về vị thế và uy tín của Hoa Kỳ ở châu Á. Tương tự, Trung Quốc đang thách thức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), tổ chức tập hợp các quốc gia phản đối sự bành trướng của Trung Quốc nhưng có ít thành tích chống đối Bắc Kinh bằng bất cứ điều gì khác ngoài luận điệu và ngoại giao. Hoa Kỳ không có yêu sách chủ quyền nhưng có lợi ích quan trọng lâu dài đối với tự do hàng hải. Cho đến nay, phản ứng của Hoa Kỳ đối với sự hung hăng của Trung Quốc chủ yếu là lên án ngoại giao và gia tăng cái gọi là hoạt động tự do hàng hải của Hải quân Hoa Kỳ trong các vùng biển quốc tế mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Các hoạt động này là cần thiết nhưng chưa đủ, vì chúng không có tác động rõ ràng đến hành vi của Trung Quốc cho đến nay. Tương tự, trong khi ASEAN chỉ tay vào Bắc Kinh, tổ chức này đã mất gần 20 năm để cố gắng đàm phán bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông với Bắc Kinh mà  không có kết quả.

Vai trò trung tâm trong việc chống lại Trung Quốc sẽ thuộc về ASEAN, một liên minh có tiềm năng mạnh mẽ gồm 10 quốc gia với 625 triệu dân và tổng GDP gần 3 nghìn tỷ Mỹ kim.

Vai trò trung tâm trong việc chống lại Trung Quốc sẽ thuộc về ASEAN, một liên minh có tiềm năng mạnh mẽ gồm 10 quốc gia với 625 triệu dân và tổng sản lượng quốc gia GDP cộng gộp gần 3 nghìn tỷ Mỹ kim. Nhưng vì các quyết định của ASEAN cần có sự đồng thuận tuyệt đối, các hành động mạnh mẽ đã bị ngăn chặn bởi hai trong số các thành viên của khối, Campuchia và Lào, là những nước chịu ơn Bắc Kinh - cho phép Trung Quốc có quyền phủ quyết trong khối này trên thực tế. ASEAN cần phải đổi mới quy trình ra quyết định của mình, nếu không sẽ có nguy cơ không phù hợp. Nếu ASEAN không thể tìm thấy ý chí để hành động như một khối, thì những thành viên ASEAN muốn hành động nên thành lập một khối hàng hải với tư cách là một liên minh có thiện chí.

Hành động mạnh mẽ hơn của châu Á cũng đòi hỏi sự lãnh đạo đáng tin cậy của Hoa Kỳ. Các quốc gia trong khu vực lo ngại rằng việc khiêu khích Trung Quốc sẽ dẫn đến việc bị chèn ép về kinh tế. Nhưng các hành động gần đây của Bắc Kinh đã thúc đẩy phản ứng mạnh mẽ bất thường từ các quốc gia giáp biển thuộc ASEAN vì lo ngại áp lực thường trực của Trung Quốc. Các quốc gia Đông Nam Á giáp biển nhận thức sâu sắc rằng việc không hành động có nguy cơ khiến Bắc Kinh kiểm soát vĩnh viễn các hoạt động kinh tế và quân sự ở Biển Đông - đây sẽ là đòn chí mạng đối với quyền tự chủ chiến lược của họ. Do đó, thời điểm đã chín muồi cho một liên minh do Hoa Kỳ dẫn đầu. Hoa Kỳ, Nhật Bản và Úc sẽ là khôn ngoan khi đi đầu trong việc xây dựng bộ quy tắc ứng xử cho vùng Tây Thái Bình Dương dựa trên luật pháp quốc tế được công nhận và các thể chế pháp lý hàng hải đã được thiết lập.

Nếu ASEAN có thể hành động tập thể, quyền lực của Trung Quốc đối với các nước thành viên ASEAN sẽ tiêu tan. Ngược lại, các chiến thuật bắt nạt của Bắc Kinh hiệu quả nhất khi nó chia rẽ và cô lập các nước láng giềng thành công. Sau khi Cảnh sát biển Trung Quốc đánh chìm một tàu ​​Việt Nam và làm 8 ngư dân bị thương vào ngày 3/4, Bộ Ngoại giao Philippines đã có động thái hiếm hoi bày tỏ sự ủng hộ đối với Việt Nam. Bắc Kinh đã lưu ý. Tương tự, nó đã tạo ra sự khác biệt khi Việt Nam giải cứu các ngư dân Philippines bị mắc cạn vào năm ngoái sau khi một tàu dân quân biển Trung Quốc bị nghi đã đánh chìm thuyền của họ.

Việc ngăn chặn Tây Thái Bình Dương biến thành một cái hồ thuộc sở hữu Trung Quốc đòi hỏi sự hợp tác để bảo vệ các đối tác và luật pháp quốc tế. Các quốc gia hàng hải như Philippines, Việt Nam, Indonesia, Malaysia và Brunei nên tăng cường hợp tác bằng cách điều phối các hoạt động bảo vệ bờ biển của họ, tăng cường chia sẻ thông tin tình báo và đạt được thỏa thuận về cách phân định ranh giới các vùng biển chồng lấn trên Biển Đông của họ.

Trong khi đó, Hoa Kỳ nên đóng vai trò như một chất xúc tác cho sự phòng thủ của khu vực bằng cách tài trợ cho Sáng kiến ​​Răn đe Ấn Độ - Thái Bình Dương của lưỡng đảng, để cung cấp kinh phí quân sự và xây dựng dựa trên những nỗ lực trước đó. Nếu ván bài ở Biển Đông của Bắc Kinh thành công, đó sẽ là một đòn giáng mạnh vào uy tín của Hoa Kỳ, lan tràn khắp các liên minh và đối tác của Hoa Kỳ trong khu vực. Trung Quốc hiểu rõ cái giá và ASEAN và Hoa Kỳ cũng vậy./.


Nguyên bản tiếng Anh:

Under Cover of Pandemic, China Steps Up Brinkmanship in South China Sea


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét